top of page
Writer's pictureJason W. Ke

TOP 10 NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM KHI SỬ DỤNG CON SỐ THỐNG KÊ (PHẦN 2)

Lược dịch từ bài viết “The 10 Commandments of football analytics” của Tom Worville trên The Athletic.


 
6. Sử dụng số bàn thắng trừ đi số xG để đánh giá khả năng dứt điểm của một cầu thủ ở trong một mẫu nhỏ

Ví dụ: Roberto Firmino chỉ ghi được 7 bàn, trong khi xG của anh là tận 12.7. Suy ra, Firmino là một cầu thủ dứt điểm tệ.


Tại sao lại sai: Khi nói đến khả năng săn bàn của một cầu thủ, có hai yếu tố cần phải được xem xét và đánh giá một cách riêng biệt. Đầu tiên đó là khả năng tự tạo cơ hội cho mình. Bàn thắng là thước đo chính để đánh giá một tiền đạo, và để ghi bàn thì các cầu thủ buộc phải thực hiện những tình huống dứt điểm. Và để biết được chất lượng của những cú dứt điểm, chúng ta dùng xG. Nếu một cầu thủ thường xuyên có được một vị trí tốt để dứt điểm thì theo thời gian, bàn thắng cũng sẽ đến với cầu thủ đó mà thôi.


Dứt điểm là một chuyện, kết thúc nó lại là một chuyện khác. Trong một không gian mẫu nhỏ (ví dụ như một mùa giải), số bàn thắng và giá trị xG của một cầu thủ rất có thể sẽ không khớp với nhau. Lấy ví dụ như chính Firmino. Mùa giải này, cầu thủ người Brazil đang ghi được ít bàn thắng hơn so với kỳ vọng nhưng đây lại đang là một trong những mùa giải tốt nhất của Firmino trong khâu chọn vị trí dứt điểm.



Trong ba mùa giải gần nhất của Firmino tại Liverpool, chúng ta đã được chứng kiến anh ghi bàn nhiều hơn, thấp hơn và ngang bằng so với kỳ vọng. Như vậy là chưa đủ dữ kiện để đưa ra đánh giá chính xác về khả năng dứt điểm của cầu thủ này.


Sử dụng gì để thay thế: So sánh xG (cơ hội mà cầu thủ có) với xG on Target (cách cầu thủ tận dụng cơ hội đó) là một trong những cách đơn giản nhất để đánh giá khả năng dứt điểm của một cầu thủ. Tuy nhiên, kể cả đó là một không gian mẫu lớn, vẫn cần phải cẩn thận và cần phải xem xét ít nhất là vài trăm cú sút.


Đang có một cuộc tranh luận trong giới phân tích bóng đá rằng liệu dứt điểm có phải là một kỹ năng mang tính đồng nhất (repeatable skill, kỹ năng ổn định theo thời gian và không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi các tác động bên ngoài) hay không. Vì vậy, cho đến khi có câu trả lời cho vấn đề trên, chúng ta vẫn cần phải dựa vào việc xG chỉ ra rằng theo thời gian, phần lớn các cầu thủ sẽ có số bàn thắng ngang bằng so với giá trị xG của họ.


7. Đánh giá màn trình diễn của một đội bóng khi có hay không có một cầu thủ cụ thể

Ví dụ: Tỉ lệ thắng của Arsenal trong mùa giải này khi không có Mesut Ozil trong đội hình là cao hơn (40%) so với khi có anh ở trong đội hình (28%).


Tại sao lại sai: “Có hay không có” là một con số thống kê dùng để cô lập sự tác động của một cá nhân riêng biệt lên cả đội để xem kết quả sẽ thay đổi như thế nào khi có cá nhân đấy trong đội so với khi không có cá nhân đấy.


Kiểu thống kê này có thể được sử dụng để phân tích ở một môn thể thao với quy mô nhỏ hơn, ví dụ như bóng rổ khi mà đây là bộ môn có sự thay đổi người liên tục và có số điểm ghi được rất lớn. Tuy nhiên trong bóng đá, có rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến con số thống kê này. Có rất nhiều thứ mà Ozil không thể kiểm soát được trong cả hai tình huống kể trên.


Đây là một vài ví dụ cho thấy những điều đó: Chất lượng của đối thủ? Chất lượng của các cầu thủ chơi xung quanh Ozil? Liệu hai bên có bị thẻ đỏ nào không? Liệu Ozil có phải vào sân từ ghế dự bị không?


Tương tự, chúng ta có vấn đề của Burnley. Cả Ben Mee và James Tarkowski đều đã chơi không thiếu một phút nào tại Premier League mùa giải này. Vậy việc thiếu đi một trong hai người họ hoặc thậm chí cả hai có giúp đội bóng thi đấu tốt hơn không? Chúng ta sẽ chả bao giờ biết được.


Sử dụng gì để thay thế: Sẽ là tốt hơn nếu chúng ta phân tích một cầu thủ trong khuôn khổ vị trí của họ và tập trung vào những gì họ có thể kiểm soát được. Với Ozil và những cầu thủ sáng tạo khác, đó là số cơ hội họ tạo ra; với các tiền đạo, đó là khả năng ghi bàn của họ; …


8. Đánh giá khả năng chuyền bóng của một cầu thủ dựa trên tỉ lệ chuyền bóng chính xác

Ví dụ: Phil Bardsley là hậu vệ cánh chuyền bóng tệ nhất Premier League, với tỉ lệ chuyền bóng thành công chỉ 63.6%.


Tại sao lại sai: Việc đường chuyền của một cầu thủ có chính xác hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc họ được yêu cầu làm những gì và những lựa chọn họ thực hiện khi đang có bóng trong chân. Một số đội, ví dụ như Manchester City, thi đấu với lối chơi bóng ngắn và ở một số khu vực cụ thể trên sân, chỉ phải chịu rất ít áp lực. Do vậy, họ có một tỉ lệ chuyền bóng thành công rất cao. Một số đội khác, ví dụ như Burnley, muốn tìm cách khai thác các khoảng trống và sử dụng những đường chuyền dài nhiều hơn cho nên tỉ lệ chuyền bóng của họ sẽ là thấp hơn.


Đôi khi, một đường chuyền, theo định nghĩa của các dữ liệu phân tích, là không thành công. Tuy nhiên nó không nói lên được hết hoàn toàn bức tranh lúc đó. Lấy ví dụ như ở tình huống dưới đây trong một trận đấu của Leeds United:



Ở đây, tình huống chuyền bóng của Helder Costa được tính là một đường chuyền hỏng, nhưng lý do phần lớn là bởi pha chạy về thần tốc của một cầu thủ phòng ngự bên phía Hull City. Ở đây, chúng ta chỉ nên quan tâm đến việc duy trì được quyền kiểm soát bóng và progression (phát triển bóng?) mà Costa đã mở ra. Còn rất nhiều những tình huống kiểu như thế này nữa khi đội vẫn giữ được quyền kiểm soát bóng mặc dù cầu thủ thực hiện đường chuyền hỏng, một điều khá là bất công đối với cầu thủ chuyền bóng khi đánh giá họ.


Sử dụng gì để thay thế: Thực sự thì không có nhiều những con số thống kê có thể giải quyết được vấn đề này. Expected pass completion rates (Tỉ lệ thành công đường chuyền kỳ vọng) có thể đưa ra một cái nhìn tổng quát hơn về việc tại sao một cầu thủ lại có tỉ lệ chuyền bóng thành công thấp, tuy nhiên thống kê này vẫn còn chưa được biết đến quá nhiều bởi đại chúng.


9. Đánh giá một cầu thủ dựa trên những lần cầu thủ đấy thất bại

Ví dụ: Trent Alexander-Arnold có số đường chuyền hỏng nhiều hơn bất cứ cầu thủ outfield (các cầu thủ trừ thủ môn) nào khác tại Premier League.


Tại sao lại sai: Michael Cox đã có một bài viết về việc thất bại tại Premier League có ý nghĩa như nào, cho nên chúng ta không đi quá sâu ở phần này (đại khái là Michael Cox nói về việc high risk - high reward ở các cầu thủ tại Premier League). Mọi chân sút giành được danh hiệu Chiếc giày vàng mỗi mùa giải chắc chắn sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội hơn so với số bàn thắng mà anh ghi được. Nhưng để tìm ra ai là chân sút hiệu quả nhất, chúng ta cần phải nhìn vào tỉ lệ chuyển hóa bàn thắng của họ và do đó cần phải có những bàn thắng.


Sử dụng gì để thay thế: Trong phần lớn trường hợp, nếu như muốn tập trung vào số lần thất bại của một cầu thủ, ta thường xem qua tỉ lệ phần trăm của cầu thủ đó nữa để có thêm một cách nhìn khách quan hơn. Có thật là họ thất bại nhiều, hay là họ đang muốn làm gì đấy khác biệt hơn so với phần còn lại?


10. So sánh hai cầu thủ có số phút thi đấu không tương đương nhau

Ví dụ: Trent Alexander-Arnold và James Maddison là hai cầu thủ xuất sắc nhì giải đấu ở khoản tạo ra các cơ hội với 75 cơ hội được tạo ra bởi mỗi người.


Tại sao lại sai: Những cầu thủ được ra sân nhiều hơn chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội thể hiện ở trên sân hơn. Với việc không đưa các cầu thủ về cùng một hệ quy chiếu về số phút thi đấu, các cầu thủ đấu ít hơn chắc chắn sẽ có những con số thống kê tệ hơn. Như Emi Buendia, đứng thứ tư trong danh sách các cơ hội tạo ra (73) nhưng lại đứng thứ hai nếu tính số cơ hội tạo ra trong 90 phút (3.3) bởi cầu thủ người Argentina thi đấu ít hơn TAA và Maddison xấp xỉ 500 phút (2,014 phút nếu so với 2,403 phút của Maddison và 2,550 của TAA, số liệu mình tự lấy ở Squawka để giúp mọi người có cái nhìn rõ hơn, người viết không nói đến trong bài).



Sử dụng gì để thay thế: Bằng việc sử dụng thống kê mỗi 90 phút, những cầu thủ thi đấu với số phút ít hơn sẽ có được sự so sánh công bằng hơn.






559 views0 comments

Recent Posts

See All

Comments


bottom of page